Những nét chính Edmund Burke

Chính trị

Nếu như ông ủng hộ kiều dân Mỹ chống lại vua George III của Anh, từ đó dẫn đến Cách mạng Mỹ thì ở chiều ngược lại, cũng là ông nhưng lại là chống đối quyết liệt Cách mạng Pháp. Việc chống lại Cách mạng Pháp, một trong những sự kiện lớn nhất lịch sử thế giới, đã khiến Burke trở thành người đối lập với một nhóm có tên là Tân Whigs (đó là phe cấp tiến trong Đảng Whig, còn phe bảo thủ mà Burke ngả về được chính ông đặt tên là Cựu Whigs).

Burke là người biện giải đầu tiên cho những quy ước hiến pháp lâu đời, tư tưởng của đảng. Đối với ông, vai trò của người nghị viên là người đại diện tự do chứ không phải là người được ủy nhiệm, tức là nếu Burke có đi bỏ phiếu thì ông chỉ cần bỏ phiếu theo suy nghĩ của bản thân.

Triết học

Tổng quan tư tưởng

Chủ nghĩa hoài nghi bảo thủ có lẽ là điểm nổi bật nhất trong triết học của Burke. Nhà triết học Ireland này luôn tỏ rõ sự ngờ vực của mình đối với chủ nghĩa duy lý chính trị. Chẳng cần đến khi bàn về Cách mạng Pháp trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (1790) mà ngay khi phái cấp tiến ở Anh đòi một cuộc cải cách dân chủ trong Nghị viện cách đó khoảng 9, 10 năm, Burke đã thể hiện rõ tính chất bảo thủ này của mình khi có ý kiến phản bác lại phái này. Burke nổi lên là nhà vô địch của chủ nghĩa hoài nghi khi ông chống lại chủ nghĩa duy lý của thời kỳ Khai sáng, thứ mà ông nghĩ "sự tự mãn siêu hình học giả mạo" của nó đã tạo ra "cuộc cách mạng của lý thuyết suông và giáo điều không thực tế".

Khế ước xã hội

Hệ quả rõ ràng mà chủ nghĩa hoài nghi bảo thủ của Burke đem lại đó là tôn sùng sự tự do do khế ước xã hội mang lại. Các khối thịnh vượng chung không được xây dựng và thay đổi theo các nguyên tắc tiên thiên. Khái niệm về một đạo luật nguyên thủy của khế ước chỉ là nguyên tắc chung. Khế ước duy nhất trong chính trị chính là cái đồng thuận cột chặt tất cả các thế hệ; "chỉ là một mệnh đề trong khế ước nguyên thủy vĩ đại của xã hội vĩnh cửu".

Burke không chấp nhận tính duy ý chí trong khế ước tự do duy lý chủ nghĩa. Cá nhân không tự do sáng tạo thể chế chính trị. Xã hội, chính trị và luật lệ không "nằm dưới quyền kiểm soát của những người, mà vì bổn phận, và vì cực kỳ ưu việt, buộc ý chí mình tuân thủ luật lệ đó". Con người và các nhóm "không được tự do về mặt đạo đức, không được tùy ý" tiêu diệt các cộng đồng và gây nên "tình trạng hỗn loạn phi xã hội, thô lỗ, không liên lạc gì với nhau".

Trí tuệ của con người

Burke còn suy nghĩ rằng, trí tuệ của con người là hạn hẹp, nhưng họ cố vượt qua những giới hạn để đến với những ý thức hệ viển vông. Họ cho rằng, không có rào cản trong công việc đó và với sức mạnh của mình và thông qua chính trị, thực tế sẽ phù hợp với ảo tưởng của họ. Qua đó Burke muốn chúng ta đánh giá đúng khả năng của mình, "đẳng cấp lệ thuộc của mình trong tạo hoá". Lý luận của ông đó là Thượng đế chỉ cho chúng ta đứng ở một vị trí nhất định và chúng ta phải biết giới hạn khi đứng ở đó. Burke còn khuyên rằng các chính trị gia đừng dựa vào trí tuệ của mình mà hãy dựa vào "ngân hàng chung và vốn liếng của các quốc gia và của mọi thời đại". Ông cũng cho rằng vì mọi người quên mất điều này nên mới cố theo cải cách mang tính duy lý, những thứ vượt quá khả năng của bản thân.

Cách mạng Pháp

Burke đã không tiếc lời thậm tệ để chỉ trích Cách mạng Pháp. Nhiều ý kiến của ông chứng tỏ điều đó. Ông nói người Pháp có tội lỗi là bởi "sự tinh tế khó hiểu của siêu hình học chính trị của họ". "Niềm tin vào chủ nghĩa giáo điều của các triết gia" khiến họ lệ thuộc vào cái trừu tượng, sự tư biện và nguyên lý tiên thiên của tự nhiên, tự dobình đẳng, coi đó là nền tảng của cải cách. Burke đã thực hiện một phép giữa người Pháp và người Anh khi ông có ý kiến rằng: "...không có những ảo tưởng như vậy; họ hiểu sự phức tạp và dễ vỡ của bản chất con người và những thiết chế do con người dựng lên..."

Tự nhiên và trật tự tự nhiên

Khi nhìn vào những tác phẩm Burke trình bày về nước Pháp, ta có thể thấy một điều: Ông đề cập nhiều đến các nguyên tắc bất biến.

Ý kiến của Burke cho rằng, cảm xúctinh thần của con người phù hợp với sự sắp xếp vĩ đại của vũ trụ. Diễn giải cụ thể hơn, xung lực của tự nhiên cũng đã ẩn chứa sự tự kiềm chế và phê bình, đạo đức và tinh thần xuất phát từ nó và ủng hộ nó nếu xét về bản chất. Hệ luận là xã hội và nhà nước tạo điều kiện để con người phát huy hết tiềm năng của bản thân, hiện thân của sự thiện hảo phổ biến; đại diện cho thỏa thuận về quy phạm và cứu cánh. Cộng đồng chính trị hành động đúng như một khối thống nhất.

Cách lý giải trên của Burke thể hiện sự kính trọng lịch sử, tục lệthành tựu xã hội. Do đó, theo nhà triết học Ireland, việc biến đổi xã hội là tất yếu khả hữu và đáng mơ ước. Nhưng phạm vi và vai trò của tư tưởng phải hoạt động như một công cụ của cải cách. Công cụ đó phải hoạt động với sức mạnh mà căng thẳng hay khả thể đặc biệt nào đó đem lại, sự tỉ mỉ trong những quá trình, chứ không phải với kế hoạch to tát đòi sự can thiệp rộng lớn. Hơn nữa, công cụ đó cũng không được nhấn mạnh đến cứu cánh khi đã gây tổn thất. Nói rõ ra, nó không để cho chủ nghĩa duy tâm đạo đức đối lập cực đoan với trật tự đương thời. Nếu để chuyện đó xảy ra, nó sẽ tác động đến sự phát triển tự nhiên của xã hội, kích hoạt những lực lượng không thể kiểm soát được và cả những phép biện chứng của những yếu tố bị loại trừ. Diễn giải như vậy, Burke đi đến một hy vọng đó là không cần phải thực hiện những cứu cánh cụ thể mà chỉ cần hòa giải những thành tố của cộng đồng là được.